6

 

Chàng nói với tôi rằng từ nay về sau sẽ không còn nghĩ đến nhị muội nữa, sẽ một lòng một dạ đối tốt với tôi.

 

Nếu như là trước kia nghe được lời ấy, hẳn tôi sẽ vui mừng khôn xiết. Nhưng nay, tôi chỉ thản nhiên nhìn chàng một cái, trong lòng lại chẳng dấy lên niềm hoan hỉ nào.

 

Sau đó, trong một quãng thời gian dài, quả thật chàng đối xử với tôi rất tốt.

 

Tự tay chàng vấn tóc cho tôi, vẽ lông mày cho tôi, chải chuốt dung nhan cho tôi.

 

Đêm Thượng Nguyên, chàng đưa tôi đi xem hoa đăng. Tiết Hoa Triều, chàng dẫn tôi ngắm hoa, dạo bước trên đồng xanh.

 

Thế nhưng, trong lòng tôi vẫn luôn cảm thấy thiếu thốn một điều gì đó.

 

Dù chàng nay đối đãi với tôi rất tốt, nhưng những lời chàng từng nói khi trước vẫn như chiếc đinh cắm sâu trong tim. Ngày qua ngày, nó âm ỉ mài mòn, từng chút từng chút một, khiến tình cảm tôi dành cho chàng cũng dần phai nhạt.

 

Buổi tối, khi nằm cạnh tôi trên giường, chàng không còn giữ lễ như thuở ban đầu, thường ngả sang phía tôi, ôm ấp, quấn quýt.

 

Có đôi lần, chàng còn ngỏ ý gần gũi. Tôi không từ chối, chỉ lặng lẽ nhìn thẳng vào mắt chàng.

 

Rồi chàng im lặng, khẽ đưa tay che mắt tôi, xoay người tôi lại, chỉ lặng lẽ ôm tôi từ phía sau, vùi mặt vào mái tóc tôi.

 

Giọng khàn khàn, run rẩy thì thầm:

 

“Đừng nhìn ta như thế, Sang Sang… Ta là phu quân của nàng mà.”

 

Tôi cảm nhận được, tình cảm mình dành cho Phùng Thời đã sắp bị chiếc đinh ấy mài sạch, không còn sót lại gì.

 

Mãi cho đến một ngày, tôi trông thấy chàng cùng một nữ tử khác, cử chỉ thân mật, sóng vai bước đi.

 

Trong khoảnh khắc ấy, tôi bỗng thấy chiếc đinh trong tim đã bị nhổ ra, và cùng với nó, tình cảm tôi dành cho chàng cũng tan biến không dấu vết.

 

Tôi không lên tiếng chất vấn, chỉ lặng lẽ quay về nhà chờ chàng trở về.

 

Khi ấy, tôi bình thản mở lời, đề nghị ly hôn.

 

Chàng lại tỏ ra vô cùng bối rối, không hiểu vì sao. Chàng hỏi tôi nguyên do.

 

Tôi đáp:

 

“Ta không hợp lòng chàng, chàng cũng chẳng hợp lòng ta. Nếu còn cố gắng níu giữ, e rằng chỉ gieo thêm oán hận. Thà rằng sớm sớm chia tay thì hơn.”

 

Dường như lời tôi đã chạm vào nơi sâu nhất trong lòng chàng, khiến chàng nặng nề hít vào một hơi, rồi nói:

 

“Không, nàng rõ ràng chỗ nào cũng hợp lòng ta. Ngược lại là ta, nếu có chỗ nào khiến nàng không vừa ý, nàng cứ nói, ta sẽ thay đổi hết thảy.”

 

Tôi vốn ngỡ chàng sẽ dễ dàng chấp thuận. Không ngờ, chàng lại không đồng ý.

 

Sau đó, tôi lại nhắc đến chuyện chàng cùng nữ tử kia cử chỉ thân mật, nói rằng mình nên nhường chỗ cho họ.

 

Chàng như thở phào, mỉm cười bảo tôi không cần ghen tuông, bởi nàng ta chỉ là một người đường họ.

 

Nhưng tôi nào có ghen tuông gì… Tôi chỉ là đã quá mỏi mệt.

 

Nửa tháng sau đó, hầu như ngày nào tôi cũng nhắc đến chuyện hòa ly.

 

Cuối cùng, có một hôm, chàng giận đến mức mặt đỏ bừng, lớn tiếng quát:

 

“Lý Hoài Tang, nàng thật sự muốn cùng ta ly hôn đến vậy sao?!”

 

Tôi đáp: “Phải.”

 

Chàng tức giận, gò má ửng đỏ, rồi ký tên lên tờ hòa ly thư, nghiến răng nói:

 

“Lý Hoài Tang, nàng chớ có hối hận!”

 

Sau khi hòa ly, trong lòng tôi bỗng nhẹ nhõm hẳn.

 

Tôi muốn đi làm những điều mình thích, muốn ngắm nhìn thế giới bên ngoài.

 

Thế là, tôi trước tiên đến chùa Thu Sơn để từ biệt mẹ, rồi quay về cáo biệt cha.

 

Cha trông tinh thần đã chẳng còn được như xưa, hẳn vì nhị muội đã đi lấy chồng.

 

Quả nhiên, khi nghe tin tôi và Phùng Thời hòa ly, cha lại mắng tôi một trận tơi bời.

 

Tôi chỉ lặng lẽ đứng bên cạnh, để mặc cho ông mắng, bỗng thấy tài chửi rủa của cha đã kém đi nhiều, đến mức khiến tôi thấy chẳng còn gì đáng để đau lòng nữa.

 

Cuối cùng, đợi khi cha mắng mệt, tôi chỉ cúi đầu lạy một cái rồi quay người rời đi.

 

Tôi mang theo nha hoàn Tiểu Mặc luôn kề bên mình, lại chọn thêm mấy gia nhân khỏe mạnh, rồi lên đường.

 

Không có điểm dừng nào định sẵn, bởi thế giới ngoài kia tôi chưa từng biết đến.

 

Tôi chỉ nghĩ, đi đến đâu, thì coi như dừng lại ở đó.

 

Trên đường, tôi gặp một người.

 

Hắn tên là Triệu Quy Viễn.

 

Nói chính xác thì, hắn là một kẻ vô lại.

 

Hôm ấy, sau khi chúng tôi ăn cơm xong, nghỉ ngơi chốc lát rồi tiếp tục lên đường, đi chưa bao lâu thì hắn ngã lăn ngay trước xe ngựa của tôi.

 

Tôi thấy vậy mới động lòng tốt, nghĩ hắn chắc là bị say nắng, liền sai người đỡ hắn lên xe.

 

Ai ngờ khi tỉnh lại, hắn lại làm bộ làm tịch, bám riết lấy tôi.

 

Hắn nói nam nữ thụ thụ bất thân, nay tôi cùng hắn, một nam một nữ, đơn độc ở trong một chiếc xe, thì thanh danh của hắn đã chẳng còn nguyên vẹn.

 

Rồi hắn còn năn nỉ tôi phải chịu trách nhiệm với hắn.

 

7

 

Tôi nổi giận, lập tức sai thị vệ lôi hắn ra khỏi xe ngựa.

 

Nào ngờ võ công hắn lại cao cường, trái lại còn đánh cho mấy thị vệ của tôi một trận nên thân.

 

Sau đó, hắn lại mặt dày bám riết lấy tôi, miệng nói hắn cũng là một tiểu lang quân tuấn tú, nếu tôi chịu “chịu trách nhiệm” thì nhất định sẽ không thiệt thòi gì.

 

Tôi càng thêm tức giận, trong lòng thầm tính toán: đến trạm thành kế tiếp, nhất định phải tìm cách đuổi hắn đi cho khuất mắt.

 

Thế nhưng, đi liền mấy ngày, hắn vẫn chẳng chịu rời.

 

Trong lòng tôi thực ra cũng hơi lo sợ — nếu hắn là kẻ vô lại, lỡ hắn giở trò vô lễ thì phải làm sao?

 

Không ngờ, hắn lại tỏ ra rất quy củ, chẳng làm gì quá phận, chỉ là mỗi ngày đều lải nhải bên tai tôi.

 

Hắn kể rằng mấy hôm trước, mẹ hắn đưa hắn đi tìm đạo sĩ xem nhân duyên. Đạo sĩ nói những ngày này hắn sẽ có hồng loan tinh động, gặp được người có duyên tiền định.

 

Ban đầu hắn còn không tin, nhưng rồi hắn quả thực đã gặp tôi. Hắn bảo, xem ra vị đạo sĩ kia cũng không phải hạng tầm thường.

 

Hắn còn khoe mình là một vị tướng quân, nói tôi chưa được thấy phong thái oai hùng của hắn trên chiến trường, nếu từng thấy, hẳn tôi sẽ chẳng thể nào không yêu hắn.

 

Nghe xong, tôi chỉ cười nhạt. Lời hắn nói, tôi một chữ cũng chẳng tin. Làm gì có vị tướng quân nào vô lại đến thế, e rằng chỉ tồn tại trong giấc mộng của hắn mà thôi.

 

Đi ra ngoài lâu như vậy, tôi chợt nhận ra bản thân chưa từng nhớ đến Phùng Thời, chỉ thỉnh thoảng nghĩ tới mẹ, không biết bà ở chùa Thu Sơn có bình an không.

 

Tôi cũng thường gửi thư cho cha mẹ, hỏi thăm sức khỏe, rồi kể đôi chút chuyện mình thấy trên đường.

 

Còn về chuyện Triệu Quy Viễn, bởi tôi chưa thể ở bên phụng dưỡng cha mẹ, nên lại càng không muốn khiến họ bận lòng, đành giấu kín.

 

Chỉ còn nửa ngày đường nữa là đến thành tiếp theo. Muốn vào thành thì phải đi qua một đoạn sơn đạo, nghe nói nơi đó có thổ phỉ, nhưng hiếm khi xuất hiện.

 

Tôi nghĩ, vận khí mình dẫu chẳng tốt đến mức nào, thì cũng sẽ không xấu đến vậy. Chỉ cần nhanh chóng vượt qua đoạn đường ấy là xong.

 

Nào ngờ, chúng tôi lại chạm trán bọn thổ phỉ ngay chính tại nơi ấy.

 

Tôi chưa từng thấy cảnh tượng hỗn loạn như vậy, nhất thời có phần hoảng loạn, lúng túng.

 

Triệu Quy Viễn ở bên ngoài, cưỡi trên lưng ngựa, vén rèm xe của tôi lên, cười nói:

 

“Đừng lo, chỉ bấy nhiêu thôi còn chưa đủ cho gia đánh đâu.”

 

Tôi thầm nghĩ hắn thật đúng là kẻ vô liêm sỉ. Nhìn ra ngoài ít nhất cũng phải mười mấy tên, thế mà hắn dám nói là không đủ hắn đánh.

 

Nhưng nghe hắn nói vậy, trong lòng tôi quả thật cũng bớt sợ hãi, khẽ khàng buông lỏng.

 

Nói xong, hắn lại buông rèm xuống, chỉ nghe hắn dặn dò hai thị vệ đứng chắn trước xe tôi.

 

Ngay sau đó, tiếng binh khí chạm nhau, tiếng la hét vang lên dồn dập, khiến tim tôi cứ đập thình thịch, chẳng dám hé rèm nhìn ra.

 

May thay, chỉ một lúc sau, bên ngoài đã lặng hẳn.

 

Rồi Triệu Quy Viễn lại vén rèm lên, tươi cười rạng rỡ nói:

 

“Sang Sang, bây giờ ta coi như ân nhân cứu mạng của nàng rồi đó. Nàng phải lấy thân báo đáp ta thôi.”

 

Hắn cười đến tuấn tú rạng ngời, khiến tôi lỡ ngẩn ngơ một thoáng. Nhưng chỉ một thoáng thôi, bởi ngay sau đó, hắn lại mở miệng nói mấy lời trêu chọc, khiến tôi tức đến mức chỉ muốn trùm bao tải đánh cho hắn một trận nên thân.

 

Bọn thổ phỉ kia đều bị trói chặt vào gốc cây.

 

Ngoài Triệu Quy Viễn và hai thị vệ giữ trước xe thì ba thị vệ còn lại đều bị thương ít nhiều.

 

May mà cách thành không xa, chúng tôi nhanh chóng vào thành, trước tiên đưa người đến y quán trị thương, rồi báo quan phủ đến sơn đạo kia xử lý đám thổ phỉ.

 

Trước đó tôi đã tính, khi đến thành này sẽ nghĩ cách tống khứ Triệu Quy Viễn. Nhưng nay, nghĩ hắn dù sao cũng cứu mạng tôi một lần, lại thấy khó xử, không tiện làm thế nữa.

 

Vì mấy thị vệ đều có thương tích, chúng tôi đành lưu lại thành này khá lâu.

 

Mà Triệu Quy Viễn thì suốt ngày kè kè bên cạnh, khiến ông chủ dịch trạm hiểu lầm, cứ tưởng chúng tôi là đôi tiểu phu thê ra ngoài du ngoạn, chỉ vì tôi giận dỗi nên mới không chịu ở chung một phòng.

 

Tôi muốn giải thích, nhưng Triệu Quy Viễn lại nhận ngay, còn khiến ông chủ dịch trạm bày ra vẻ mặt “ta hiểu cả rồi”.

 

Từ đó, tôi thường xuyên bắt gặp cảnh ông chủ và Triệu Quy Viễn ghé tai thì thầm với nhau, thi thoảng lại đưa mắt nhìn tôi, đầy vẻ mờ ám.

 

8

 

Không biết lão chưởng quầy kia đã dạy cho Triệu Quy Viễn những trò quỷ quái gì, mà từ đó, trong phòng tôi mỗi ngày đều bị ném vào vài đóa hoa giấy màu hồng, hoặc bướm giấy nho nhỏ.

 

Tôi thấy trên đó còn có chữ, tò mò mở ra xem.

 

Bên trong toàn là những bài thơ sến sẩm đến chua loét, cuối cùng còn ký tên: Triệu Quy Viễn tặng Sang Sang.

 

Tôi nghẹn lời, cạn cả vốn liếng biểu cảm.

 

Mấy ngày sau, thơ tình chua chát kia bỗng dưng ngừng hẳn.

 

Tôi lại thấy có chút không quen, thậm chí còn vô thức đảo mắt quanh phòng để tìm xem có bông hoa giấy nào sót lại không.

 

Tôi nghĩ, chắc Triệu Quy Viễn đã đi tìm đại phu khám bệnh, sửa sang lại cái đầu óc đã hỏng hóc nhiều năm.

 

Nhưng đến tối, tôi mới biết mình đã nghĩ sai.

 

Dựa vào cái đầu óc của hắn, làm sao có thể tìm đại phu được?

 

Trong mắt hắn, chỉ có hắn mới là kẻ thông minh tuyệt thế trên đời này mà thôi.

 

Tối đó, tôi đi ngủ sớm. Đang mơ màng sắp thiếp đi, bỗng có một thứ âm thanh chói tai truyền đến, giống hệt như tiếng gió lùa qua mảnh thủy tinh vỡ.

 

Ban đầu tôi nghĩ chắc ai đó đang sửa chữa gì đó, chắc chẳng bao lâu sẽ dừng.

 

Nghĩ thế, tôi cố nhịn, co người trong chăn, còn dùng chăn che tai.

 

Nào ngờ tiếng động ấy kéo dài mãi không dứt, càng lúc càng rền rĩ khó nghe, khiến tôi bực bội không thôi.

 

Đêm nay chẳng lẽ quyết tâm không để người ta ngủ yên sao?

 

Cuối cùng, tôi đành vùng dậy, khoác vội một chiếc áo choàng dài chạm mắt cá chân, đẩy cửa bước ra, định tìm cho ra kẻ nào dám quấy rầy giấc ngủ của tôi.

 

Khi tôi vừa mở cửa, phòng bên cạnh cũng vang lên tiếng kẽo kẹt.

 

Một tiểu cô nương xinh xắn, đáng yêu bước ra, trên gương mặt hiện rõ vẻ tức giận.

 

Xem ra, nàng cũng cùng tâm trạng với tôi, định đi tìm kẻ gây chuyện.

 

Nàng thấy tôi, liền cất tiếng gọi, rủ tôi đi cùng.

 

Tôi và tiểu cô nương ấy lần theo âm thanh kia, đi thẳng đến sân nhỏ của dịch trạm.

 

Không ngờ lại thấy Triệu Quy Viễn.

 

Hắn mặc một bộ cẩm bào màu trắng, viền áo lộ ra những đường hoa mộc cận bằng bạc tinh xảo, gấu áo còn thêu lá trúc thanh nhã.

 

Bộ y phục ấy, cộng thêm dung mạo tuấn mỹ vô song của hắn, quả thật khiến người ta phải thốt lên: đúng là một lang quân phong lưu tuyệt thế.

 

Tôi vốn đã quen với cái dáng vẻ lố lăng hắn bày ra trước mặt mình suốt ngày, nên không thấy gì lạ.

 

Ngược lại, tiểu cô nương bên cạnh tên là Kỷ Tô Tô, vừa nhìn đã ngẩn ngơ, đôi mắt mở to nhìn hắn không chớp, gương mặt ửng đỏ.

 

Triệu Quy Viễn trông thấy tôi, liền bước tới, trên mặt mang theo vài phần ấm ức, nói:

 

“Sao nàng giờ mới đến? Ta đã thổi tiêu ở đây suốt nửa ngày rồi.”

 

Lúc ấy tôi mới bừng tỉnh — thì ra cái tiếng khó nghe vừa nãy là do hắn gây ra!

 

Tôi ngại không tiện nói thẳng hắn thổi quá khó nghe, bèn uyển chuyển bảo:

 

“Đây là lần đầu tiên ngươi thổi tiêu phải không?”

 

Hắn còn đắc ý đáp:

 

“Gia mới học có nửa ngày thôi, thế mà đã thổi được rồi đấy!

 

Tiểu sư phụ kia còn khen ta rất có linh tính, bảo ta đã có thể tự mình lĩnh hội, về sau cũng chẳng cần đến học nữa.”

 

Trong lòng tôi thầm cười nhạt — chỉ e vị tiểu sư phụ kia bị hắn làm phiền quá, đành nói vài câu lấy lòng để tống khứ hắn đi, còn hắn lại tưởng thật.

 

Tôi nhất thời cũng phân vân, không biết có nên vạch trần sự thật cho hắn không.

 

Lại nghe hắn hỏi:

 

“Ngươi có nhận ra ta vừa thổi khúc gì không?”

 

Quả thực tôi bị hắn làm khó, thật sự chẳng nghe ra đó là khúc gì.

 

Do dự một lúc, tôi bèn nói:

 

“Khúc ngươi vừa thổi quả là một lối riêng, chẳng lẽ là khúc do chính ngươi sáng tác?”

 

Triệu Quy Viễn liếc tôi một cái, trong ánh mắt kia hình như còn mang theo đôi chút khinh bỉ.

 

Rồi hắn nói:

 

“Đó là khúc Phượng Cầu Hoàng! Ai da, sao đến cái này mà nàng cũng không biết. Đợi khi nào ta sẽ dạy cho nàng.”

 

Sắc mặt tôi cứng lại, thầm nghĩ: cái đó thì thật chẳng cần đâu.

 

Lúc này, Kỷ Tô Tô mới bừng tỉnh, ấp úng hỏi:

 

“Chị Sang Sang, đây là phu quân của chị phải không?”

 

Tôi vừa định mở miệng phủ nhận, thì Triệu Quy Viễn đã lập tức bước sát lại gần tôi, dõng dạc đáp: