2

 

Những ngày gần đây, nhị muội cũng thường xuyên đến viện của tôi chơi đùa, lại hay trêu chọc, hỏi không biết khi nào tôi mới tìm được một lang quân như ý.

 

Tôi chỉ cười, đem chút tình cảm mơ hồ kia ép xuống tận đáy lòng. Nghĩ bụng, qua ít hôm nữa, nó sẽ tự nhiên tan biến.

 

Nhị muội năn nỉ Phùng Thời đi săn bắn cùng nàng, rồi lại thấy chỉ có hai người thì buồn tẻ, liền kéo tôi cùng mấy bằng hữu của nàng đi theo.

 

Trong lúc đuổi theo một con thỏ xám, nhị muội chẳng may trượt chân ngã xuống vách núi. Tôi ở ngay bên cạnh, vội vàng đưa tay kéo nàng lại.

 

Nhưng tôi đã đánh giá thấp sức nặng của nàng.

 

Kết quả là tôi bị kéo ngã theo. Phùng Thời nghe thấy tiếng kêu hoảng hốt của chúng tôi, may mắn cũng vừa kịp chạy tới.

 

Chàng dùng tay phải bám lấy một tảng đá nhô ra trên vách núi, tay trái nắm chặt lấy tay tôi.

 

Thế là ba người chúng tôi nối thành một chuỗi, treo lơ lửng giữa sườn vực.

 

Còn mấy bằng hữu đi cùng nhị muội, chẳng biết đã chạy biến đi đâu.

 

Ý định ban đầu của chàng là để nhị muội leo lên từ trên người chúng tôi, rồi đến lượt tôi, sau cùng mới kéo chàng lên.

 

Nghe thì có vẻ hoàn hảo, nhưng thực tế chỉ nhị muội trèo lên được.

 

Đến khi tôi vừa cố nén ngượng ngùng bò thêm hai bước, tay phải của chàng trượt khỏi tảng đá — thế là cả hai chúng tôi rơi xuống.

 

May thay bên dưới có một gốc cây.

 

Chúng tôi rơi lên cành cây trước, rồi vì sức nặng mà cành gãy, cả hai mới rớt xuống đất.

 

Khoảnh khắc ấy, Phùng Thời ôm chặt che chở cho tôi.

 

Bởi thế, tôi không bị thương gì nghiêm trọng, chỉ có vài vết xước trên chân và tay.

 

Còn chàng thì ngất lịm đi.

 

Ban đầu tôi định chờ ngay tại chỗ, để nhị muội đi gọi người đến cứu. Nào ngờ trời bỗng đổ mưa, lại sắp chạng vạng tối.

 

Tôi thấy không xa có một hang núi, bèn nghĩ phải đưa chàng vào đó trú.

 

Nhìn bề ngoài Phùng Thời có vẻ thư sinh gầy yếu, chẳng ngờ lại nặng đến vậy.

 

Tôi thử nâng không nổi, cuối cùng chỉ còn cách nắm lấy cổ chân chàng, kéo lê vào trong hang.

 

Nhờ chút ánh sáng cuối ngày còn sót lại, tôi nhìn thấy trên trán chàng thêm một vết thương, rỉ máu. Hẳn là lúc tôi kéo đi đã vô tình va phải đâu đó. Trong lòng tôi dâng lên cảm giác áy náy.

 

Nhị muội làm việc vốn chậm chạp, đến tối mịt rồi mà vẫn chưa thấy ai đến tìm.

 

Phùng Thời chẳng những chưa tỉnh, còn bắt đầu run rẩy, sờ trán thì thấy nóng hầm hập.

 

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi lo chàng sẽ chết trong hang này, bèn cởi áo khoác ngoài của cả hai, chỉ còn mặc nội y, rồi ôm chặt lấy chàng, đắp áo bên ngoài lên cả hai người.

 

Tôi tự nhủ, chỉ cần nghe thấy tiếng người gọi tìm ở xa, sẽ lập tức chỉnh lại y phục, rồi lên tiếng để họ đến. Như vậy sẽ chẳng ai biết chuyện gì.

 

Tôi lặp đi lặp lại trong lòng, cố ép bản thân không ngủ, lắng tai nghe động tĩnh bên ngoài.

 

Thế nhưng, lúc tôi mở mắt ra một lần nữa — đã là trong nhà rồi.

 

3

 

Có người đi gọi cha tôi đến. Khi thấy tôi tỉnh lại, trên mặt cha ban đầu thoáng hiện vui mừng, nhưng ngay sau đó liền bị cơn giận che lấp.

 

Tôi lập tức hiểu — lần này, xong rồi.

 

Cha mắng tôi một trận, sau cùng nói: hãy chuẩn bị đi, vài ngày nữa sẽ gả tôi về phủ họ Phùng.

 

Trong lòng tôi tràn đầy áy náy, vậy mà lại nảy sinh một chút niềm vui thầm kín.

 

Trước khi xuất giá, tôi không còn gặp Phùng Thời nữa. Chỉ nghe nói chàng đã ngầm chấp nhận mối hôn sự này, ở nhà tĩnh dưỡng bệnh.

 

Ngược lại, nhị muội có đến thăm tôi đôi lần, mắt nàng đỏ hoe, hẳn là đã lén khóc trong chăn không ít. Khi ấy, tôi càng cảm thấy mình có lỗi, tựa như đã chia rẽ một đôi uyên ương đang mặn nồng.

 

Nhị muội lại an ủi tôi:

 

“Vốn dĩ là do muội ham chơi, chẳng liên quan đến tỷ. Trái lại, là muội hại tỷ và chàng.”

 

Sợ tôi không ưa chàng, nàng còn hết lời ca ngợi:

 

“Tỷ tỷ so với muội dịu dàng, chu đáo hơn, lại còn xinh đẹp hơn. Tỷ gả qua đó, Phùng Thời nhất định sẽ thích tỷ. Sẽ chẳng còn nhớ đến một kẻ vô dụng như muội đâu.”

 

Tôi biết, nàng là đang sợ. Sợ rằng bởi vì nàng, mà giữa tôi và chàng sẽ trở thành một đôi oán ngẫu, mỗi người đều nhìn nhau bằng ánh mắt chán ghét.

 

Ngày tuyết phủ bay trắng trời, tôi gả cho chàng.

 

Giờ đây, chàng đã là phu quân của tôi.

 

Tình cảm thầm kín mà tôi từng kìm nén, bỗng lại nở rộ trong lòng.

 

Hôm đó, chàng toàn thân nồng nặc mùi rượu, bị người khác đẩy vào tân phòng, rồi vén khăn trùm của tôi.

 

Đêm ấy, chàng ngủ trên chiếc giường nhỏ hẹp đặt trong phòng.

 

Chỉ có điều… tôi biết, chàng không hề say.

 

Tôi nghĩ, đã là vợ chàng, thì cả đời này ắt sẽ cùng chàng sánh bước. Có những chuyện không cần vội vàng đêm tân hôn, cứ để chàng từ từ rồi sẽ thuận theo.

 

Nào ngờ, cái “từ từ” ấy, lại kéo dài hết tháng ngày này đến tháng ngày khác.

 

Thành thân nửa năm, Phùng Thời đối với tôi vẫn lạnh nhạt vô cùng. Dẫu cùng chung giường, chàng cũng chưa từng chạm vào tôi.

 

Có lần tôi gợi nhắc đến chuyện ấy, chàng chỉ nói rằng không trách tôi. Nhưng tôi biết, trong lòng chàng là oán hận: oán chính mình, oán nhị muội, cũng oán cả tôi.

 

Quả đúng như phụ thân từng nói, nhà họ Phùng có không ít sản nghiệp, việc quản lý lại vô cùng rườm rà, nặng nề.

 

Tôi tự thấy, chính vì cái đêm định mệnh kia mà tôi không kịp buông tay, khiến chàng và nhị muội lỡ dở một đời.

 

Thế nên, từ khi gả về, tôi chỉ muốn làm một người vợ hiền.

 

Biết chàng bận rộn chính sự, tôi đặt mọi việc đều lấy chàng làm trọng.

 

Biết trên chân chàng có vết thương cũ, tôi khắp nơi tìm thầy thuốc, dược liệu.

 

Nghe nói phu nhân nhà họ Lý khéo tay, nấu nướng tài giỏi, tôi cũng học cách rửa tay vào bếp, tự mình làm canh cơm cho chàng.

 

Tôi chỉ mong, một ngày nào đó, chàng sẽ dành cho tôi một chút thương yêu.

 

4

 

Lại nửa năm trôi qua, nhị muội đã xuất giá.

 

Người nàng lấy chỉ là một thư sinh sống bằng nghề vẽ tranh. Tôi vô cùng kinh ngạc, phụ thân sao lại đồng ý gả nhị muội cho một kẻ thư sinh nghèo túng như vậy.

 

Nhưng khi được gặp vị thư sinh ấy, tôi liền hiểu ra tất cả.

 

Chàng ta không phải bậc tuấn mỹ phi phàm, chỉ có thể xem là một nho sinh thanh tú, hơi rụt rè, song nhìn qua đã cảm thấy đó là người ôn nhu tận cốt tủy.

 

Chàng đối với nhị muội thật tốt, là cái tốt mà tôi chẳng thể nói thành lời, cũng chẳng bao giờ cầu được.

 

Nếu phải so sánh, thì hẳn là còn hơn cả phụ thân đối đãi với Mai di nương — thân mẫu của nhị muội.

 

Ngày thành hôn của họ, tuy không xa hoa náo nhiệt như hôn lễ của tôi và Phùng Thời, nhưng lại khiến tôi thầm ngưỡng mộ khôn xiết.

 

Tôi hỏi nhị muội, vì sao lại chọn gả cho chàng ta.

 

Nàng chỉ cười đáp:

 

“Bởi vì chàng rất yêu muội, mà muội cũng rất thích chàng.”

 

Lời ấy như một mũi dao đâm thẳng vào tim tôi.

 

Bởi tôi và Phùng Thời, chỉ có mình tôi hết lòng yêu chàng, còn chàng thì keo kiệt đến mức, đến cả một chút thích thôi cũng chẳng chịu ban cho tôi.

 

Nhị muội cũng từng hỏi tôi về cuộc sống sau hôn nhân. Tôi chỉ đáp gọn: “Chàng đối với ta rất tốt.”

 

Nhưng trong thâm tâm, tôi hiểu rõ, chúng tôi đã trở thành cái mà nhị muội sợ nhất — một đôi oán lữ.

 

Hôm ấy, sau khi dự hôn lễ của nhị muội trở về, Phùng Thời không nói một lời, chỉ tự nhốt mình trong thư phòng mà uống rượu.

 

Tôi biết lòng chàng buồn bực, nhưng rượu uống nhiều ắt hại thân, nên tôi bước đến khuyên nhủ đôi câu.

 

Khi tôi đẩy cửa vào, khuôn mặt trắng trẻo của chàng đã nhuộm màu đỏ hồng vì men say.

 

Có lẽ tiếng cửa mở làm chàng giật mình, chiếc chén rượu trên tay liền rơi xuống đất, vỡ tan thành tiếng giòn chát.

 

Tiếng vỡ ấy cũng phá tan luôn sự bình lặng giữa chúng tôi.

 

Chàng nhìn tôi trân trân, hốc mắt hơi đỏ, cất giọng khàn khàn:

 

“Ngươi lại muốn quản ta sao? Đến cả việc ta uống vài chén rượu, cũng không được ư?”

 

Ánh mắt ấy như một mũi nhọn đâm thẳng vào tim tôi. Thì ra sự quan tâm của tôi, trong mắt chàng lại chỉ là gánh nặng thôi sao?

 

Tôi còn chưa kịp mở lời, thì đã thấy chàng đứng dậy, ánh mắt vẫn dán chặt vào tôi, nói từng tiếng một:

 

“Lý Hoài Tang, điều ta chán ghét nhất chính là cái tự cho mình đúng của nàng. Trước kia là vậy, bây giờ cũng thế.”

 

“Hôm đó, nếu không phải vì nàng lắm chuyện, ta và A Ngọc sớm đã thành thân rồi, sao lại đến mức này?”

 

“Người ta ta yêu đã mất rồi, Lý Hoài Tang, nàng lấy gì mà đền cho ta đây!”

 

Từng câu, từng chữ chàng thốt ra, đều như những chiếc đinh sắt đóng thẳng vào tim tôi, tàn nhẫn, không chút lưu tình.

 

Trong khoảnh khắc ấy, tôi cảm thấy cơ thể mình dường như chẳng còn là của chính mình nữa. Tôi mơ hồ nhớ được, mình đã tát chàng một cái, rồi quay đầu chạy về phòng.

 

Trong cơn hoảng loạn, tôi nghe thấy tiếng người liên hồi gõ cửa, gọi lớn tên tôi.

 

Hình như… tôi đã khóa cửa rồi thì phải.

 

Tôi nghe thấy giọng chính mình, khàn đặc, nghẹn ngào trong tiếng khóc, nói vọng ra:

 

“Để ta yên một lát.”

 

Thì ra là vậy ư? Thì ra tôi chỉ là tự cho mình đúng.

 

Thì ra tôi chỉ là kẻ nhiều chuyện thừa thãi.

 

Thì ra, tôi mới chính là người đã hại chàng.

 

Cửa bị mạnh mẽ đẩy tung ra. Phùng Thời lao vào, trong mắt tràn đầy hoảng loạn.

 

Tôi không hiểu, chàng hoảng loạn vì điều gì.

 

Chàng bước đến, ôm chặt lấy tôi:

 

“Vừa rồi ta uống say, tất cả đều là lời hồ đồ thôi.”

 

Tôi chẳng đáp lại. Chàng bèn vuốt ve mái tóc tôi, khẽ khàng gọi đi gọi lại:

 

“Sang Sang… Sang Sang…”

 

Tiếng gọi ấy run rẩy, yếu ớt, cứ vang mãi trong không gian.

 

Rồi chàng vùi đầu vào hõm cổ tôi. Tôi chỉ cảm thấy một dòng lạnh lẽo lăn qua da thịt nơi ấy.

 

Chàng khóc rồi.

 

Phải, tôi đã khiến chàng thê thảm đến thế… Khóc, là lẽ dĩ nhiên.

 

Chàng ôm chặt lấy tôi thật lâu, giống như kẻ sắp chết đuối vớ được khúc gỗ nổi.

 

Chàng khàn giọng nói:

 

“Sang Sang, nàng đừng như thế… ta khó chịu lắm, thật sự rất khó chịu.”

 

“Ta chưa từng nghĩ rằng nàng ấy lại đi lấy chồng nhanh đến vậy. Ta… ta không trách nàng, ta chỉ oán chính mình. Chỉ là ta không cam tâm, vì cớ gì mà ta và nàng ấy lại phải bỏ lỡ như thế.”

 

“Vừa rồi chỉ là men rượu làm loạn, ta hồ đồ mới nói những lời bậy bạ. Cái ngày nàng cứu ta, trong lòng ta chỉ có biết ơn, chưa từng có oán hận.”

 

Nghe chàng nói vậy, trong lòng tôi chỉ thấy mệt mỏi. Suốt một năm qua, tôi nào có phải chưa từng oán trách chính mình.

 

Cái cảm giác tội lỗi vô tình chia cắt chàng và nhị muội, luôn đè nén trong tâm khảm, nặng đến mức khiến tôi thở không nổi.

 

Ngay cả tình yêu cuồn cuộn trong lòng mình, tôi cũng chưa bao giờ dám thổ lộ trực tiếp.

 

Chàng cùng tôi chung giường mà chưa từng chạm vào.

 

Tôi tận mắt chứng kiến chàng một mực si tình với nhị muội, nên tình cảm của tôi dành cho chàng lại càng trở nên đáng xấu hổ.

 

Một năm qua, cả tôi lẫn chàng đều chỉ biết cắn răng nhẫn nhịn.

 

Hôm nay chẳng qua là nhân ngày đại hôn của nhị muội, mà những uất nghẹn mới bùng phát mà thôi.

 

Tôi đẩy Phùng Thời ra, nói:

 

“Ta muốn đến chùa Thu Sơn ở một thời gian.”

 

Đột nhiên, tôi rất muốn gặp mẹ. Tôi không muốn đối diện với bất cứ điều gì nữa.

 

Lúc này, tôi chỉ mong được mẹ ôm vào lòng, nếu có thể ngủ một giấc trong vòng tay mẹ thì tốt biết bao.

 

Chàng lộ rõ vẻ buồn bã, nói sẽ đi cùng tôi.

 

Nhưng tôi từ chối.

 

Chàng theo tôi làm gì? Để nhìn ngắm cái bộ dạng chật vật, thảm hại của tôi sao?

 

Khi nhìn thấy mẹ, tôi muốn lao vào lòng bà, muốn kể hết những tủi hờn trong tim. Thế nhưng, lại cảm thấy xa lạ, đôi chân cứng đờ, chỉ biết đứng lặng một chỗ.

 

Trong thoáng chốc, tôi nhận ra — dường như từ trước đến nay, tôi vẫn luôn chỉ có một mình.

 

Trong lòng tôi chỉ là một sa mạc hoang vu, còn lại duy nhất một mầm cây nhỏ bé, nhưng cũng vì chẳng ai tưới tắm mà đã khô héo.

 

Má tôi bỗng thấy ươn ướt. Đưa tay lên chạm, mới biết thì ra mình lại khóc rồi.

 

Mẹ thoáng lộ vẻ lúng túng, nhưng vẫn bước đến ôm chặt tôi, lấy khăn tay lau nước mắt, rồi khẽ hôn lên trán tôi một cái, vô cùng dịu dàng.

 

Khoảnh khắc ấy, tôi cảm thấy như có một cánh lông vũ mềm rơi xuống trán, và trên sa mạc khô cằn trong lòng tôi, bỗng rơi xuống cơn mưa xuân dịu ngọt.

 

Tôi ôm chặt lấy mẹ, níu vạt áo bà, chẳng thể kìm nén mà bật khóc thành tiếng, như muốn khóc ra hết thảy uất ức chôn sâu bao năm.

 

Mẹ lại càng luống cuống, chỉ biết vỗ nhẹ lên lưng, vuốt tóc tôi, không hỏi tôi vì sao phải khóc, chỉ dịu dàng lặp đi lặp lại:

 

“Mẹ đây rồi, Sang Sang đừng khóc, Sang Sang đừng khóc…”

 

Giọng nói dịu dàng của mẹ càng khiến tôi thêm tủi thân, nước mắt cứ thế trào ra, khóc đến mức chẳng thể kiềm chế.

 

Khóc mệt lả, tôi thiếp đi trong vòng tay mẹ.

 

Tôi ở chùa gần tám, chín ngày, thì Phùng Thời đến đón. Tôi không nói với mẹ chuyện giữa tôi và chàng, nhưng hình như bà đã đoán được phần nào.

 

Thấy Phùng Thời, mẹ chẳng hề tỏ ra vui vẻ, thậm chí không buồn cho chàng một nét mặt dễ chịu.

 

Trước khi rời đi, mẹ dặn tôi:

 

“Chớ đem mọi chuyện giấu trong lòng. Mẹ mong Sang Sang có thể sống thoải mái, tùy hứng một chút.”

 

Tôi ngẩn người. Bởi từ trước đến nay, những người quanh tôi chỉ luôn nói:

 

“Sang Sang, con phải hiểu chuyện một chút.”

 

“Con lớn rồi, đừng bướng bỉnh nữa.”

 

Đây là lần đầu tiên có người bảo tôi: hãy cứ tùy hứng, hãy cứ sống cho chính mình.

 

Tôi khẽ mỉm cười, đáp một tiếng:

 

“Vâng.”

 

Trên đường trở về, Phùng Thời muốn nắm lấy tay tôi, nhưng tôi né tránh.

 

Chàng nói, mấy ngày tôi không có ở bên, chuyện gì chàng cũng làm chẳng ra hồn.

 

Lúc nào cũng nhớ đến tôi, thậm chí thường ngỡ như trông thấy bóng dáng tôi quanh quẩn bên cạnh — khi ăn cơm, lúc đi ngủ, thậm chí cả lúc lên triều.

 

Đến nỗi Hoàng thượng trông thấy sắc mặt chàng ủ rũ, còn đặc biệt ban cho chàng mấy ngày nghỉ.

 

Chàng chỉ quanh quẩn ở nhà, thấy thời gian dài dằng dặc, cuối cùng mới đến đón tôi về.