Tôi không biết cô ấy đã bị họ chọc cho khóc bao nhiêu lần, thậm chí còn muốn bỏ nghề.

 

Dĩ nhiên, tình hình như vậy khiến giáo viên chủ nhiệm đau đầu.

 

Nhưng trớ trêu là Chu Nhạc luôn lôi kéo được rất nhiều bạn cùng lớp cùng làm, lại rất giỏi ẩn mình sau lưng họ, và sở hữu một cái miệng có thể đảo ngược trắng đen.

 

Ở một khía cạnh nào đó, Giản Hạnh rất giống Chu Nhạc.

 

Nhưng cô ấy không thông minh bằng Chu Nhạc.

 

Ban đầu, có lẽ cả hai vẫn chịu che giấu tính cách thật, chỉ thể hiện mặt tốt nhất của mình, trông thì chơi rất thân.

 

Nhưng dần dần, mâu thuẫn đã nảy sinh.

 

Vấn đề lớn nhất là — cả hai đều không chịu làm “người nghe”, đều muốn đối phương nghe lời mình.

 

Khi tôi thấy Giản Hạnh tìm Chu Nhạc ít hơn, và bắt đầu nói xấu Chu Nhạc sau lưng, tôi biết rằng — ngày mà tôi chờ đợi đã đến.

 

Khi Chu Nhạc biết được những việc Giản Hạnh đã làm sau lưng mình, hai người trực tiếp cãi nhau một trận, và kết thúc bằng việc tuyệt giao.

 

Từ ngày đó, Chu Nhạc bắt đầu lôi kéo bạn bè xung quanh cô ta cô lập Giản Hạnh, nói xấu cô ấy sau lưng.

 

Không chỉ là sau lưng — khi đi ngang qua Giản Hạnh, họ sẽ bất ngờ đẩy một cái rồi cười bỏ đi, hoặc buông ra vài câu khó nghe.

 

Giản Hạnh tất nhiên không phải loại người mặc cho người khác bắt nạt, nhưng sự phản kháng của cô quá yếu ớt.

 

Cô báo với giáo viên, nhưng giáo viên cũng chỉ có thể khiển trách Chu Nhạc bằng lời và gọi phụ huynh.

 

Khi Tiêu Nhã chuyển đến lớp bên cạnh và trở thành bạn thân của Chu Nhạc, mọi chuyện lại leo thang thêm lần nữa.

 

Tôi chỉ đứng ngoài lạnh lùng quan sát tất cả, từ chối ánh mắt cầu cứu hết lần này đến lần khác của Giản Hạnh.

 

Mãi đến khi cô chủ nhiệm cuối cùng cũng tìm ra được một cách tạm thời để kìm bớt những người đó, thì cuộc sống của Giản Hạnh mới khá hơn một chút — nhưng chỉ là một chút mà thôi.

 

Đến năm lớp Tám, Chu Nhạc và Tiêu Nhã tròn mười bốn tuổi.

 

Dưới sự tố cáo của gia đình những học sinh từng bị họ bắt nạt, cả hai bị đưa vào trại giáo dưỡng, sau khi ra thì chuyển trường.

 

Những học sinh từng bị họ bắt nạt cũng không muốn ở lại ngôi trường này nữa, nên lần lượt chuyển đi, chỉ còn lại Giản Hạnh vẫn ở đây.

 

Không còn Chu Nhạc và Tiêu Nhã, phần còn lại của đám người kia cũng bị vụ việc đó làm cho sợ, không dám đối xử với cô như trước nữa — nhưng sự xa lánh vẫn còn.

 

Như thể buông bỏ chính mình, Giản Hạnh căm ghét tất cả mọi người xung quanh.

 

Nhưng cô lại quay về bên tôi.

 

Lúc này, cô ấy vẫn khó có thể tập trung vào chuyện học hành.

 

Có lẽ vì đã cảm thấy bản thân không còn hy vọng, nên cô bắt đầu tìm mọi cách cản trở việc học của tôi, dùng những thủ đoạn trẻ con và nực cười.

 

Những thứ đó chẳng ảnh hưởng gì đến tôi, thành tích của tôi vẫn luôn nằm trong top của lớp.

 

Trong lòng tôi vẫn luôn có một mục tiêu — đó là động lực cho mọi nỗ lực của tôi bấy lâu nay.

 

Tôi muốn đi thật xa, tôi muốn rời khỏi bố mẹ mình, tôi muốn có một sự tự do trọn vẹn cho riêng mình.

 

8

 

Lên cấp ba, tôi với thành tích đứng nhì khối đã vào lớp chọn của trường Nhất Trung.

 

Lúc này, thành tích của Giản Hạnh đã kém xa trước đây, chỉ vừa chạm ngưỡng điểm chuẩn của Nhất Trung.

 

Cô ấy có nhiều lựa chọn — Nhị Trung, Tam Trung, Tứ Trung…

 

Nhưng cô ấy lại cố tình chọn Nhất Trung.

 

Chú thím tôi tìm đến, vừa lau nước mắt vừa cầu xin bố mẹ tôi nhờ vả để đưa Giản Hạnh vào lớp chọn.

 

Sắc mặt bố mẹ tôi đều khó coi, nhưng cuối cùng miễn cưỡng đồng ý, và cũng nói rõ — chỉ lần này thôi.

 

Khi việc vào lớp đã xong, họ lại muốn tôi kèm Giản Hạnh học.

 

Khi mẹ tôi tỏ ý không thấy phiền và định đồng ý, tôi lập tức lên tiếng:

 

“Thím à, mẹ đã đăng ký cho con mấy lớp học thêm rồi, hay thím cũng đăng ký cho Hạnh nhé, như vậy bọn con có thể học cùng nhau.”

 

Đó không phải một khoản nhỏ, thím tôi do dự, cuối cùng chuyện đó rơi vào im lặng.

 

Khai giảng, Giản Hạnh lại một lần nữa học cùng lớp với tôi.

 

Với những lời gợi mở có chủ ý của tôi, chẳng mấy chốc cả lớp đều biết cô ấy là “con ông cháu cha” được đưa vào lớp chọn bằng quan hệ.

 

Mọi người đều là học sinh miệt mài đèn sách, vì một suất học mà chen lấn đến vỡ đầu — làm sao có thể bình thản khi thấy một người vào lớp chọn nhờ “đi cửa sau”?

 

Tính cách của Giản Hạnh vẫn không đổi, thậm chí còn tệ hơn.

 

Cô ấy giả vờ cao ngạo, không thèm kết giao, không chịu nổi khi ai đó nói xấu mình một câu, nhưng sau lưng lại lôi kéo người khác bàn tán, bới móc từ đầu đến cuối.

 

Với tất cả những điều đó, ở cấp ba, cô ấy vẫn như trước — chẳng ai muốn tiếp xúc.

 

Chỉ khác là, học sinh lớp chọn hầu hết bận học, nên sự không ưa dừng lại ở mức không tiếp xúc, không quan tâm.

 

Rồi Giản Hạnh yêu sớm.

 

Người đó là hội trưởng hội học sinh — Triệu Diêu.

 

Bề ngoài, cậu ta nhiệt tình, thân thiện, tâm tư dịu dàng và tỉ mỉ,

 

nhưng thực chất lại cực kỳ giỏi PUA* — âm thầm đả kích, điều khiển tâm lý người khác mà không để lộ dấu vết, là “học sinh ba tốt” trong mắt thầy cô.

 

Khi mới vào cấp ba, tôi làm cán bộ lớp nên đã vài lần làm việc với hội học sinh.

 

Trong quá trình đó, việc quen biết Triệu Diêu là điều không thể tránh khỏi.

 

Một vài hoạt động của trường khiến chúng tôi tiếp xúc nhiều hơn.

 

Không rõ vì lý do gì, cậu ta bắt đầu có chút hứng thú với tôi.

 

Rất nhanh sau đó, tôi nhận ra — sự hứng thú này không chỉ dành riêng cho mình tôi.

 

Bất cứ ai có ngoại hình ưa nhìn hoặc khá xuất sắc mà cậu ta tiếp xúc, cậu ta đều thích đóng vai “soái ca ấm áp” — tặng sự quan tâm, tặng “tình yêu”, thỉnh thoảng xen chút mập mờ.

 

“Chị họ, mấy thứ này em không biết làm, chị mau dạy em đi.”

 

Khi Giản Hạnh một lần nữa ném bài tập vào tay tôi, cắt ngang lúc tôi đang học thuộc, trong đầu tôi chợt hình thành một ý nghĩ.

 

“Hạnh Hạnh, em có quen hội trưởng hội học sinh Triệu Diêu không?”

 

Giống như với Chu Nhạc hồi cấp hai, tôi bắt đầu cố ý hoặc vô tình khen ngợi Triệu Diêu trước mặt Giản Hạnh.

 

Thực tế, Triệu Diêu có khá nhiều điểm để đem ra khen, và danh tiếng bên ngoài của cậu ta cũng rất tốt.

 

Sau vài lần như vậy, Giản Hạnh rõ ràng đã tỏ ra hứng thú.

 

“Chị họ, chẳng lẽ chị thích anh ấy à?” — cô ấy hỏi lại tôi.

 

Tôi vội vàng lắc đầu, giả vờ hoảng loạn:

 

“Hạnh Hạnh, em nói gì vậy, bây giờ mới học cấp ba, sao có thể yêu sớm được.”

 

Nhưng trong tai Giản Hạnh, đó lại là tôi không phủ nhận, chỉ là không dám bước thêm một bước.

 

Thế là suy nghĩ của cô ấy bắt đầu vận hành.

 

Với sự “giúp đỡ” của tôi, cô ấy thành công gia nhập hội học sinh.

 

Công việc của hội học sinh ở cấp ba không nhiều, nhưng Giản Hạnh hễ có thời gian là chạy sang bên đó, tâm trí hoàn toàn không còn ở lớp học nữa.

 

Cô ấy bắt đầu thường xuyên nhắc đến Triệu Diêu trước mặt tôi — nói rằng cậu ta tốt với cô ấy thế nào, chăm sóc cô ấy ra sao.

 

Cô hoàn toàn không nhận ra, cái “tốt” ấy chỉ là những lời dễ nghe từ đối phương, ngoài ra chẳng có gì khác.

 

Nhưng điều này cũng không thể trách cô — trong trường, những người thầm thích Triệu Diêu không hề ít.

 

Họ không chịu nổi việc ai đó nói xấu Triệu Diêu, và trong mắt họ, bất cứ ai nói cậu ta không tốt đều là vì ghen tị với cậu ta.

 

Cũng chính những người đó đã khiến danh tiếng của Triệu Diêu ngày càng tốt hơn.

 

Giản Hạnh và Triệu Diêu đã ở bên nhau — đó là điều cô ấy hớn hở kể với tôi.

 

“Chị họ, em và Triệu Diêu đã ở cùng nhau rồi. Em không quan tâm trước đây chị nghĩ gì, nhưng từ bây giờ, chị tuyệt đối không được có ý nghĩ đó nữa.”

 

Tôi tất nhiên sẽ không tranh giành, bởi vốn dĩ đây là “món quà” tôi cố ý sắp đặt cho cô ấy.

 

Chỉ là tôi hơi ngạc nhiên về tốc độ họ đến với nhau, nhanh hơn tôi dự tính khá nhiều.

 

Một thời gian sau, tôi mới biết, cái gọi là “tình yêu” của họ chỉ là vụng trộm.

 

Không chỉ giấu thầy cô và phụ huynh, mà Triệu Diêu còn không cho phép Giản Hạnh nói với bạn bè, bạn học.

 

Giản Hạnh đã đồng ý, nhưng cô ấy quá muốn khoe với tôi, nên vẫn lén kể.

 

Triệu Diêu thật sự sẽ yêu một người như vậy sao?

 

Điều này tôi không tin.

 

Sau một thời gian quan sát, tôi đã phát hiện ra manh mối.

 

Nếu tôi không đoán sai, thì Triệu Diêu không chỉ qua lại với một người.

 

Hoàn cảnh gia đình cậu ta không tốt, nhưng dạo này đồ dùng cá nhân đều được thay mới, càng đổi càng đắt tiền.

 

Bên ngoài, cậu ta nói là làm thêm cuối tuần để kiếm tiền — điều này lại giúp cậu ta được khen ngợi nhiều hơn.

 

Mỗi lần nhắc đến Triệu Diêu, Giản Hạnh đều có thể khen ngợi cậu ta từ trong ra ngoài.

 

Nhưng tôi lại nhận ra, chiếc đồng hồ trên tay Triệu Diêu chính là món mà một tuần trước tôi đã nhìn thấy ở chỗ Giản Hạnh.

 

“Chị họ, Triệu Diêu nói cuối tuần này sẽ dẫn em đi hẹn hò, đây là buổi hẹn đầu tiên từ khi chúng em ở bên nhau.”

 

Giản Hạnh nói, gương mặt đầy ngọt ngào.

 

“Em quên là thứ Hai tuần sau có kỳ thi tháng à?” — tôi hỏi, không phải để nhắc nhở, mà là muốn xem vị trí của Triệu Diêu trong lòng cô ấy quan trọng thế nào.

 

Giản Hạnh do dự một chút, rồi cuối cùng vẫn đứng về phía Triệu Diêu:

 

“Chẳng phải chỉ là một kỳ thi tháng sao? Có gì đâu? Chị họ, đợi em hẹn hò về, chị giúp em ôn lại trọng điểm nhé.”

 

Nói xong, cô ấy còn chẳng buồn nghe tôi trả lời, mà ôm điện thoại nhắn tin ngay.

 

Cuối tuần, cô ấy thật sự đi hẹn hò với Triệu Diêu.

 

Sáng đi, mãi đến gần tối mới trở về, gương mặt vẫn đầy vẻ hạnh phúc.

 

Tôi sẽ không để cô ấy có thời gian làm phiền mình.

 

“Hạnh Hạnh, hình như vài tuần nữa là sinh nhật Triệu Diêu, em đã nghĩ sẽ tặng gì chưa?”

 

Giản Hạnh lập tức cảnh giác:

 

“Tại sao chị lại biết? Chị lén tìm hiểu về anh ấy sau lưng em à?”

 

“Tôi chỉ nhắc em thôi.”

 

“Không cần chị nhắc, em là bạn gái của anh ấy, chẳng lẽ em lại không biết chuyện này sao?”

 

Sau khi tôi nhắc đến chuyện đó, ngay hôm sau Giản Hạnh đã ra ngoài chọn quà sinh nhật cho Triệu Diêu.

 

Trong đầu cô ấy toàn là hình bóng của Triệu Diêu, đến tối về nhà cũng chẳng nhớ mình đã nói gì trước đó.

 

Mãi đến sáng hôm sau, cô ấy mới sực nhớ, rồi bắt đầu cuống lên.

 

Cô ấy nhờ tôi gạch giúp những nội dung trọng tâm, tôi đã gạch.

 

Suốt buổi tự học sáng hôm đó, cô ấy vội vã học thuộc lòng trong hoảng loạn.

 

Nhưng với từng ấy kiến thức, sao có thể học thuộc chỉ trong hai mươi phút tự học buổi sáng?

 

Cô ấy học trong vất vả, nhưng thực tế, sau hai mươi phút, chẳng nhớ được gì.

 

Hết giờ tự học, kỳ thi bắt đầu.

 

Kết quả, kỳ thi tháng này, cô ấy lại đứng cuối bảng, thậm chí phá luôn kỷ lục điểm thấp nhất của bản thân.

 

Tôi thấy cô ấy gục đầu xuống bàn, khóc ngay tại chỗ.

 

Có vẻ như cô ấy muốn học hành nghiêm túc trở lại, nhưng chỉ vài ngày sau, tâm trí đã quay lại với Triệu Diêu.

 

Lớp chọn của trường có một quy định: nếu liên tiếp ba kỳ thi tháng đều đứng cuối, sẽ bị khuyên chuyển sang lớp thường.