Kể từ ngày tôi tận mắt thấy Thẩm Đạc dùng máu nuôi gương đồng Âm Dương, nỗi bất an trong lòng tôi ngày càng lớn dần.
Nhưng tất cả vẫn như bị phủ trong một màn sương mù, tôi không thể nào xâu chuỗi được mọi suy nghĩ.
Những ngày sau đó, Thẩm Đạc dường như đặc biệt bận rộn.
Gần như không về nhà.
Thế nhưng căn nhà này lại náo nhiệt hơn bình thường.
Lần thứ ba mươi, tôi chỉ vào một con ma đang lén lút tiến gần đến Bành Uẩn:
“Này! Mày làm gì đấy? Không thấy đây là địa bàn của tao à?”
Lần này là một con ma treo cổ. Hắn vừa quay mặt lại thấy tôi thì lập tức run lẩy bẩy, chân mềm nhũn:
“Đại tỉ à, chị xuất hiện không phát ra chút động tĩnh nào nên em không… phát hiện ra luôn!”
Tôi nhướng mày — còn là một con ma phương Bắc.
“Thôi được rồi, giờ biết rồi thì cút ra ngoài.”
Hắn lập tức vọt đi mất dạng như làn khói.
Tôi chống cằm nhìn cô gái nhỏ đang quay lưng lại tôi, vẽ tranh trên bảng vẽ, nửa khuôn mặt cô sáng rực dưới ánh nắng, đến cả lớp lông tơ mịn cũng thấy rõ.
Từ khi Thẩm Đạc không về nhà, những ngày này căn nhà liên tục xuất hiện các oan hồn — tất cả đều nhắm đến Bành Uẩn.
Cũng là tình cờ, con ma đầu tiên vừa mới lướt vào cửa đã bị ánh mắt tôi liếc trúng.
Nó lập tức quỳ sụp xuống đất, run rẩy van xin:
“Không biết đây là địa bàn của cô cô ngài, là tôi mù mắt mới dám tự tiện bước chân vào đất của thái tuế!”
Cũng nhờ câu đó mà tôi mới biết được:
Thì ra Bành Uẩn là người mang thể chất “tứ trụ thuần âm” (sinh vào năm âm, tháng dương, ngày âm, giờ âm).
Chính là loại “thực phẩm tuyệt hảo” mà các linh hồn lang thang nơi nhân gian khao khát tìm kiếm.
Còn tôi — khắp người lại toát ra sát khí nặng nề, rõ ràng là một ác quỷ hung hãn tàn độc.
Chỉ cần tôi xuất hiện, lũ quỷ lập tức tản ra bốn phương tám hướng.
Tôi bật cười mỉa mai.
Tôi chết vì tai nạn, không oán khí, cớ sao lại hóa thành lệ quỷ?
Nhưng oai phong trời ban thì tội gì không dùng.
Từ hôm đó, tôi đã đuổi không ít thứ ghê tởm muốn hút âm khí từ Bành Uẩn.
Cho đến khi… lão già đó xuất hiện.
Tôi như thường lệ dọa dẫm ông ta:
“Đây là địa bàn của tôi, mau cút đi.”
Lão già vuốt chòm râu, cười ha hả:
“Ngươi là một hồn phách bị giam cầm mà còn dám lên giọng với ta sao?”
“Ta không phải mấy con ma nhỏ hồ đồ kia, không dễ bị dọa đâu.”
Tim tôi chợt nghẹn lại, giọng nói khàn khàn như có cát trộn vào:
“Ông nói… hồn phách bị giam cầm là sao?”
Lão chỉ vào linh vị trên bàn thờ bằng gỗ đào đối diện, rồi lại chỉ vào một chiếc bình sứ trắng bên cạnh tôi:
“Linh vị đặt đối diện bình tro cốt — gọi là ‘khóa linh’.”
“Có phải ngươi không thể rời khỏi bức tường kia dù chỉ nửa bước không? Bởi vì hồn phách của ngươi đã bị phong trong tường.”
Móng tay tôi gắt gao bấm sâu vào lòng bàn tay, nhưng không cảm thấy chút đau đớn nào.
Mắt gần như đỏ ngầu.
Lão chậm rãi bước vài bước, đi đến trước linh vị của tôi, ngắm nghía một lúc rồi nói:
“Gỗ trầm hương vân vàng thượng hạng, thế mà lại dùng mười tám chiếc đinh vàng đóng chặt bốn phía.”
“Gỗ là chủ sinh, nhưng vàng là chủ tử. Đinh vàng đóng vào linh vị chính là để cố định hồn phách người chết, khiến họ mãi bị nhốt trong tro cốt.”
Ánh mắt lão lướt qua dòng chữ trên bài vị, phát ra những tiếng xuýt xoa thán phục:
“Tuyệt thật, không chỉ có thế.”
“Người làm ra chuyện này quả thật vừa ác độc, lại vừa tinh vi!”
Lão chỉ vào hai hàng chữ nhỏ bên dưới bài vị:
“Nhìn xem, bốn chữ ‘Nhất sinh chí ái’ (Tình yêu suốt đời) không được viết ngay chính giữa, mà lại được chia thành hai cột dọc — ‘Chí ái’ và ‘Nhất sinh’.”
“Đứng riêng thì tưởng là người lập bài vị rất sâu nặng tình cảm, nhưng mấu chốt nằm ở hai chữ ‘Nhất sinh’ được tách riêng thành một dòng khác và viết bằng kim tuyến.”
“Chữ ‘sinh’ có một nét ngang trên đầu — là cắt đứt con đường đi đầu thai của ngươi đó!”
“Tuyệt! Quả thật quá tuyệt!”
Từng lời từng chữ của lão như hóa thành những mũi dao đâm sâu vào trái tim trống rỗng của tôi.
Dù chỉ còn là một hồn phách, tôi vẫn cảm thấy đau đớn như ngũ tạng bị bóp nát.
Lão quay đầu nhìn tôi:
“Tuy nói rằng chết rồi không tính chuyện sinh tiền, nhưng mà bị bày ra ‘trận phong hồn khóa mệnh’ thế này, cô bé, oán hận của ngươi cũng quá sâu rồi đó.”
“Ngươi biết ai đã làm chuyện này không?”
Hận ý như ngọn sóng dữ nhấn chìm toàn bộ ý thức của tôi.
Tôi nghiến răng, từng chữ một rít ra qua kẽ răng:
“Chồng… tôi.”
“Thẩm… Đạc.”
Khuôn mặt lão già cuối cùng cũng hiện lên chút thương hại:
“Vì sao hắn lại mang nhiều hận độc đến thế?”
Trong đầu tôi bỗng vụt qua cảnh tượng chiếc gương đồng bát quái, kim bạc lấy máu…
Một dự cảm mãnh liệt dâng lên trong lòng:
— Chắc chắn những thứ đó có liên quan đến tình cảnh hiện tại của tôi.
Quả nhiên, lão già sau khi nghe tôi kể xong thì bừng tỉnh:
“Thì ra là vậy, vậy thì hợp lý rồi.”
“Chiếc gương bát quái mà cô nói chính là ‘ngư âm dương’. Màu trắng là dương, màu đen là âm.”
“Gương đồng chiêu gọi tà khí, lấy nó làm vật dẫn, kết hợp với bát tự (ngày sinh tháng đẻ) làm môi giới, cộng thêm máu và tóc của người làm phép…”
Ánh mắt lão chợt lóe sáng:
“Đó là để — hoán đổi mệnh cách!”
Làn sương mù ký ức bị vén ra, tôi chợt nhớ lại một chuyện cũ…
…
Tôi và Thẩm Đạc bắt đầu yêu nhau từ năm nhất đại học.
Anh là trẻ mồ côi, lớn lên nhờ hàng xóm cưu mang, nhưng vô cùng chăm chỉ, cầu tiến.
Sau khi quen nhau, anh đối xử với tôi rất tốt, là hình mẫu bạn trai lý tưởng trong mắt mọi người.
Sau khi tốt nghiệp, tôi may mắn như trúng số, được nhận vào một công ty nước ngoài với đãi ngộ cực tốt, mọi thứ thuận buồm xuôi gió.
Còn anh thì tìm việc mãi không xong, liên tục gặp khó khăn.
Thời gian đó anh luôn trong trạng thái u sầu, bức bối.
Tôi biết từ nhỏ anh vốn tin vào phong thủy, nên cố tình chọn một ngày rảnh đưa anh đến chùa cầu phúc, mong giải được vận xui.
Ngay trước cổng chùa, bọn tôi bị một lão hòa thượng chặn lại.
Ông ta đeo kính râm, người tròn trĩnh mập mạp, chẳng có chút khí chất cao tăng gì cả.
Thế mà lão lại làm vẻ đạo mạo, nói như thần:
“Nữ thí chủ mệnh cách vô cùng vượng phát.”
Tôi chỉ cười cho qua.
Lại thêm một tên bịp bợm giang hồ.
Nhưng ngược lại, Thẩm Đạc lại sáng bừng cả hai mắt.
Khi tôi còn đang định kéo anh đi thì thấy anh nhìn chằm chằm lão hòa thượng với ánh mắt rực sáng:
“Đại sư, ngài có thể xem giúp con một quẻ không?”
Lão liếc anh một cái, lập tức cau mày.
Rồi không nói gì thêm nữa.
Anh ta hất tay áo bỏ đi.
Sau đó, Thẩm Đạc có vẻ đăm chiêu, tâm trạng nặng nề.
Tôi trêu anh: “Sao thế? Lẽ nào mệnh anh không tốt? Ghen tị với em à?”
Không ngờ Thẩm Đạc lại cau mày, vẻ mặt đầy u sầu:
“Lúc anh sinh ra, từng có một đạo sĩ vân du đến làng, xem quẻ cho anh.”
“Nói rằng cả đời anh sẽ lận đận, tài lộc và thọ mệnh đều không có.”
Tôi bật cười:
“Mấy lời nhảm nhí đó mà anh cũng tin à? Toàn là bọn bịp bợm!”
“Hơn nữa, em với anh vốn như một, mệnh em tốt thì chẳng phải anh cũng được hưởng phúc hay sao?”
Trong mắt Thẩm Đạc thoáng hiện lên một tia âm trầm.
Thấy tôi nhìn sang, anh mới lại nở nụ cười dịu dàng quen thuộc với tôi:
“Đúng vậy. Em tốt thì cũng là anh tốt.”
Kết quả, khi tôi đợi Thẩm Đạc vào nhà vệ sinh, lão hòa thượng kia lại đột ngột xuất hiện bên cạnh tôi.
Tôi kinh ngạc nhìn quanh — con đường dẫn đến đây chỉ có một, rõ ràng khi nãy không hề có ai đi tới.
Trong lòng tôi bất giác nổi lên một luồng lạnh lẽo.
Hòa thượng vẻ mặt nghiêm nghị, tự mình lên tiếng:
“Mệnh cô tuy quý, nhưng trong số mệnh có kiếp nạn. Cần phải đề phòng kẻ ác bên cạnh tráo đổi trời đất. Cô phải…”
Ông ta còn chưa nói hết câu, thì Thẩm Đạc đã đi tới phía này.
Thấy tôi và hòa thượng đứng cùng nhau, sắc mặt anh thoáng trở nên u ám.
Hòa thượng thở dài một tiếng:
“Mệnh đã định như vậy… Mệnh đã định như vậy… Cô hãy tự lo lấy…”
Chuyện đó tôi chẳng mảy may để tâm.
Nhưng không ngờ — có người lại ghi nhớ trong lòng.
Và vì thế… đã cướp đi mạng sống của tôi.