15
“…Diệp Loan Loan?”
Tôi hoảng hốt, giật lùi mấy bước, không dám mở miệng, chỉ cúi đầu căng thẳng vò góc áo. Trong đầu loé lên hàng loạt lý do chống chế, nhưng chưa kịp nghĩ ra cách nào ổn thỏa thì Chu Tấn Dư đã bước lại gần, đứng trước mặt tôi, giọng trầm thấp:
“Ngẩng đầu lên, nhìn tôi.”
Tôi không dám, chỉ biết cúi gằm, sợ hãi đứng yên.
Trong cơn rối bời, tôi vội vàng giải thích bừa:
“Tôi vừa rồi chỉ là… sao nhỉ, cậu biết đó, con người mà, xem ti-vi nhiều quá… đúng! Là do xem ti-vi nhiều, thấy cậu đẹp trai quá liền buột miệng gọi ‘chồng’ thôi! À, có khi cậu chỉ lo học hành nên không biết, bây giờ trên mạng người ta rất hay gọi trai đẹp là ‘chồng’ đấy, ha ha, tôi cũng học theo thôi!”
Càng nói tôi lại càng thấy có lý, thế là liền thuận đà tiếp tục:
“Tôi vốn mê trai đẹp lắm, cứ nhìn thấy là lại gọi ‘chồng’ quen miệng. Mà cậu đẹp trai thế này, tôi sao chống đỡ nổi! Chỉ là trước đây, vì ngại tình đồng học nên không dám gọi. Hôm nay trong bếp chỉ có hai người, bầu không khí… thế là buột miệng thốt ra, buột miệng thôi ấy mà!”
“Xin lỗi nhé, xin lỗi… không dọa cậu chứ?”
Chu Tấn Dư im lặng nhìn tôi, không nói lời nào. Đôi mắt đẹp ấy chăm chú dõi theo khiến tôi tim đập dồn dập, sợ hãi đến mức phải gãi đầu cười gượng, cố làm dịu bầu không khí.
Cả hai cứ thế lặng im thật lâu. Khi tôi nghĩ rằng, có lẽ anh đã tin lời tôi, hoặc sẽ mãi chẳng nói gì thêm, thì bất ngờ, anh cất tiếng hỏi:
“Vậy… vừa rồi, em đang tỏ tình với tôi sao?”
Hả!? Cả tràng lý do chống chế của tôi mà lại bị anh hiểu thành… lời tỏ tình ư!!?
“Không, không phải đâu! Ý tôi là cậu đẹp trai quá! Tôi thấy trai đẹp thì quen miệng gọi ‘chồng’, nên mới vô thức gọi cậu như thế thôi!”
Chu Tấn Dư hình như vẫn chưa hoàn toàn hiểu, hàng mày khẽ nhíu, ánh mắt đầy dò hỏi:
“Vậy là… em thích trai đẹp?”
“Ừm, đúng rồi!”
“Vậy em thấy tôi đẹp trai lắm sao?”
“Ừm, đúng rồi!” — không có gì sai cả, quả thật anh rất đẹp trai.
Nghe xong, khóe môi Chu Tấn Dư khẽ cong lên, chân mày và đôi mắt sáng trong như họa. Khi anh cười, giống hệt một đóa ngọc lan trắng, đẹp đến mức làm người ta thót tim. Tôi đứng cạnh, ngẩn ngơ nhìn đến thất thần. Anh khẽ bật cười, giọng trầm thấp vang lên:
“Vậy chẳng phải… em thích tôi rồi sao?”
!!?
Chu Tấn Dư vẫn mỉm cười, nụ cười ấy như sắp tràn ra ngoài. Anh nhìn tôi, từng chữ rõ ràng:
“Diệp Loan Loan, tôi cũng thích em.”
Tôi cũng thích em, tôi cũng thích em, tôi cũng thích em!
Aaaa! Chu Tấn Dư nói anh thích tôi! Anh thích tôi! Nghĩa là… nghĩa là anh đang tỏ tình với tôi sao!?
Sống qua hai kiếp, chưa từng có giây phút nào khiến tôi bối rối đến vậy. Đầu óc tôi trống rỗng, tai chỉ vang vọng mãi một câu “thích em”. Mặt nóng rần như bị lửa đốt, lòng bàn tay và cánh mũi rịn mồ hôi, ánh mắt mờ mịt, chỉ ngây ngốc dán chặt vào Chu Tấn Dư, người đang đứng gần đến vậy.
Mà anh, kỳ thật cũng chẳng khá hơn tôi là bao. Vành tai đỏ ửng, ánh mắt cụp xuống, nụ cười rạng rỡ ban nãy đã nhanh chóng biến mất, thay vào đó là khuôn mặt đỏ bừng, luống cuống không biết làm gì.
16
Hôm ấy, rốt cuộc tôi đã rời khỏi nhà Chu Tấn Dư thế nào, thật sự không còn nhớ nổi. Chỉ nhớ suốt quãng đường về, tim cứ dậy sóng, nghĩ lại khoảnh khắc anh nói “thích em”, tôi liền bật cười thành tiếng ngay trên xe buýt.
Anh thích tôi ư? Chẳng lẽ trước giờ anh vẫn thầm thích tôi sao? Chu Tấn Dư thầm mến tôi! Ha ha ha, nghĩ đến thôi đã thấy buồn cười, hạnh phúc đến mức không tin nổi.
Đang mải đắm chìm trong suy nghĩ, bỗng có người vỗ vai, giọng quen thuộc vang lên ngay sau lưng:
“Chào cô Diệp, không biết cô gặp chuyện gì vui đến thế, nhưng ở nơi công cộng xin cô tiết chế chút. Không thì người ta sẽ nghĩ cô bị bệnh mất.”
Trước mặt tôi là Hàn Cẩn. Nghe cậu nói, tôi mới giật mình nhìn quanh, phát hiện cả xe buýt đang đồng loạt quay sang, ánh mắt hoặc vô cảm, hoặc hiếu kỳ dán vào tôi.
“Xin lỗi, xin lỗi, làm phiền mọi người rồi…” Tôi cúi gập người, gượng gạo nhận lỗi. Trong lòng hối hận vô cùng. Đúng là mất mặt quá, cười to đến mức này, chẳng khác nào muốn cả thế giới biết mình vui mừng sao.
“Vậy rốt cuộc là có chuyện gì vui vậy? Cô Diệp không chia sẻ một chút sao?”
Chia sẻ ư? Nếu thật sự kể ra thì mới là mất mặt gấp đôi!
“Không, không có gì đâu. Chỉ là nhặt được hai chục tệ, nghĩ bụng mua được mấy gói khoai tây chiên, thế là vui thôi.”
“Ồ.” Hàn Cẩn cũng không truy hỏi thêm, chỉ lặng lẽ đứng ngay bên cạnh chỗ tôi.
“Tôi hỏi này, cậu định đi đâu thế?”
“Không đâu cả, dì Ngụy bảo tôi đi tìm cô về nhà.”
“À? Sao bà không gọi điện cho tôi?”
“Có gọi rồi. Mấy chục cuộc mà cô chẳng bắt máy nào cả.”
… Xong đời rồi. Tôi vội móc điện thoại ra, mới phát hiện chế độ “không làm phiền” bật từ tối qua mà quên tắt. Màn hình đầy ắp thông báo tin nhắn và cuộc gọi nhỡ. Lần này thì tiêu thật rồi!
Từ nhỏ đến lớn, tôi hiếm khi bị mẹ đánh. Lần duy nhất tôi còn nhớ là hôm tan học theo bạn về nhà, quên không nói, khiến mẹ cuống cuồng đi tìm, cuối cùng còn báo cảnh sát. Đến khi tìm thấy tôi, nước mắt bà tuôn ào ào ngay trước mặt.
Đó là lần đầu tiên, cũng là duy nhất, tôi thấy mẹ khóc.
Về đến nhà, bà Ngụy đã ngồi trên sofa, gương mặt u ám, không khí trong nhà lặng ngắt như tờ. Hàn Cẩn chào một tiếng rồi lủi ngay vào phòng. Tôi thì sợ đến mức hai tay xoắn chặt vào nhau, cảm giác cả không gian xung quanh cũng đông cứng lại.
Như thể đã trôi qua cả một thế kỷ, cuối cùng mẹ Ngụy mới mở miệng:
“Sáng khoảng tám giờ, con rời nhà đi lấy bằng tốt nghiệp. Đến trưa cơm nước rồi mà vẫn chẳng thấy bóng dáng đâu. Mẹ gọi điện thì không bắt máy, gọi cho thầy cô thì mới biết hôm nay con vốn dĩ chẳng đến trường. Mẹ và Tiểu Hàn tìm con từ chiều đến tận chập tối. Trong lúc đó, gọi không biết bao nhiêu cuộc, nhắn không biết bao nhiêu tin, mà chẳng có hồi âm…”
“Trong mấy tiếng con biến mất ấy, mẹ đã nghĩ đến tất cả những điều tệ hại nhất. Mẹ sợ con gặp nguy hiểm, mẹ sợ con cần giúp đỡ mà chẳng ai bên cạnh. Mẹ thật sự rất sợ… Trên đời này mẹ không còn ai thân thích nữa. Ông bà ngoại mất rồi, mẹ chỉ còn mỗi mình con. Con chính là tất cả của mẹ.”
“…Mẹ, con xin lỗi…” – Tôi nghẹn ngào, giọng run run.
Nhưng mẹ Ngụy dường như không nghe thấy, vẫn bình tĩnh nói tiếp:
“Từ nhỏ đến lớn, mẹ luôn đặt kỳ vọng rất cao vào chuyện học hành của con, chỉ mong con sau này thi được một trường đại học tốt. Nhưng rồi mẹ nhận ra con không phải kiểu người đó. Thế là mẹ chỉ ước mong con gái mẹ cả đời được bình an, khỏe mạnh. Con mạnh khỏe, vui vẻ ở bên mẹ thôi, thế là mẹ đã mãn nguyện lắm rồi.
Trước đây khi cãi nhau, con nói con ghét mẹ coi con như đồ sở hữu. Con nói cách dạy dỗ của mẹ thất bại, khiến con cảm thấy chẳng có tự do, chẳng có bình đẳng. Con còn bảo… đôi khi con thật sự rất ghét mẹ.”
“Đêm đó mẹ trằn trọc không ngủ nổi, cứ tự hỏi mình có phải đã làm quá đáng thật rồi không? Nhưng mẹ chẳng còn cách nào khác. Mẹ chỉ là quá sợ mất con. Khi chính con gái mình bảo mẹ cố chấp, bảo thủ, ngang ngược, khoảnh khắc ấy mẹ thật sự rất sợ… rất sợ con sẽ căm ghét mẹ.
Vậy nên, về sau mẹ cố gắng buông tay. Khi con điền nguyện vọng đại học, mẹ thật sự rất muốn giữ con lại Liên Thành. Nhưng mẹ sợ con nghĩ mẹ muốn giam giữ con, nên mẹ trao quyền quyết định cho con. Và khi cuối cùng con bảo sẽ ở lại Liên Thành… mẹ thật chẳng còn thể diện gì nữa, nhưng đêm đó mẹ đã vui sướng đến mức cười cả đêm không ngủ được…”
Tôi khóc đến mức không thể kiềm chế nổi. Nghe mẹ nhắc lại những chuyện mà tôi đã sớm quên lãng, nước mắt càng tuôn rơi không dứt.
Tôi thật sự đã quá vô tâm.
Kiếp trước, sau khi lên Bình Thành học đại học, mỗi năm tôi nhiều lắm cũng chỉ về nhà được hai lần. Mỗi lần trở về, niềm vui hiện rõ trên gương mặt mẹ, chẳng sao giấu nổi. Sau này kết hôn và định cư ở Bình Thành, tình hình càng tệ hơn — có khi mấy năm liền tôi không về lấy một lần. Những dịp lễ Tết, mẹ gọi điện hết lần này đến lần khác, còn tôi lần nào cũng chỉ nói: “Lần này bận, lần sau nhất định sẽ về.” Nhưng… cho đến lúc trọng sinh quay lại, tôi vẫn chưa từng thực hiện được lời hứa ấy.
Lần tôi bị sẩy thai ngoài ý muốn, mẹ lo lắng đến mức lập tức bắt tàu đêm sang Bình Thành. Khi tôi khóc lóc vì mất con, tôi lại quên mất mẹ — người chắc hẳn cũng đau đớn chẳng kém. Nhớ lại quãng thời gian khiến tôi khổ sở đến cùng cực ấy, mẹ gần như chẳng nói gì, chỉ lặng lẽ chăm sóc tôi từng chút một. Khi tôi trút giận lên Chu Tấn Dư, trong mắt mẹ ánh lên nỗi xót xa, vành mắt hoe đỏ.
Vậy mà tôi lại phớt lờ bà. Xuất viện rồi, mẹ một mình quay lại Liên Thành. Tôi lúc đó còn chìm trong nỗi đau mất con, chẳng thèm nhớ đến chuyện gọi điện cho bà. Mỗi lần bà chủ động liên lạc, tôi cũng chỉ qua loa vài câu cho xong. Tôi hầu như chưa từng nghĩ cho mẹ, chỉ biết nhận lấy tình thương bà trao, mà hiếm khi đáp lại bằng chút quan tâm nào.
Nghĩ càng nhiều, lòng càng đau đớn. Tôi giận chính mình bất hiếu, giận mình ích kỷ. Trước mắt, mẹ ngồi thẳng lưng trên sofa, mái tóc điểm bạc, gương mặt đã hằn nếp nhăn và đốm tàn nhang, tất cả như đang nhắc nhở tôi về sự già nua không tránh khỏi.
“Xin lỗi mẹ… xin lỗi mẹ… con xin lỗi…” Tôi lặp đi lặp lại lời xin lỗi, rồi quỳ sụp xuống, gục đầu vào lòng mẹ, khóc đến tê dại.
Người mà cả đời này tôi nợ nhiều nhất, có lẽ chính là mẹ. Bà yêu tôi đến vậy, mà tôi hết lần này đến lần khác làm bà tổn thương.
Bàn tay mẹ dịu dàng vỗ về đôi vai tôi đang run rẩy vì khóc. Ngoài cửa sổ, trăng sáng vằng vặc, cảnh tượng yên bình như thể thời gian đã ngưng đọng. Niềm hân hoan ngắn ngủi sau lời tỏ tình của Chu Tấn Dư sớm tan biến, chỉ còn lại trong lòng tôi là vô tận day dứt và áy náy với tình thương của mẹ.
17
Trái tim từng rộn ràng vì lời tỏ tình của Chu Tấn Dư, sau cuộc trò chuyện thẳng thắn với mẹ, dần dần cũng lắng lại, trở nên bình tĩnh.
Nghĩ kỹ mà xem, cho dù Chu Tấn Dư có thích tôi đi chăng nữa thì đã sao? Kết cục của chúng tôi đến cuối cùng có lẽ vẫn giống hệt kiếp trước thôi — bởi giữa tôi và anh, luôn tồn tại sự khác biệt về quan niệm sống, về những gì chúng tôi theo đuổi.
Tôi đâu phải chưa từng trải qua những cú “tát” từ xã hội: bị người ta coi thường, bị sếp chỉ thẳng mặt mắng trước bao đồng nghiệp, bị khách hàng bắt sửa đi sửa lại bản kế hoạch đến mức thoát vị đĩa đệm. Có thời gian tồi tệ nhất, tôi suýt phải ngủ ngoài đường vì không đủ tiền trả tiền thuê nhà.
Đã từng trải qua những đắng cay như vậy, thế nhưng tại sao tôi vẫn cố chấp ôm lấy lý tưởng? Mười mấy tuổi nói về lý tưởng, người ta sẽ khen rằng đứa trẻ này có chí. Nhưng đến khi ngoài hai mươi, tay trắng, vẫn khư khư tin vào lý tưởng, thì chỉ nhận lại được tiếng cười nhạo. Người ta sẽ nói: “Đúng là điên rồ, cơm còn chưa đủ ăn mà suốt ngày mơ mộng viển vông, chắc rảnh rỗi quá.”
Thế nhưng, sống hai đời, tôi vẫn kiên định một điều: sống là để cảm nhận thế giới này. Cuộc sống vốn không có sẵn ý nghĩa. Tất cả mọi thứ đều vô nghĩa — chỉ là chúng ta cần tự mình gán cho nó ý nghĩa trong quá trình tồn tại.
Tôi, dù là kiếp trước hay kiếp này, e rằng cũng chẳng làm nên trò trống gì. Giống như mẹ nói, bà chỉ mong tôi khỏe mạnh, vui vẻ cả đời. Còn tôi, tôi cũng chỉ mong bản thân mình sống khỏe mạnh, sống hạnh phúc. Thực ra, được sống vui vẻ trong sự bình an ấy, nếu suy cho cùng, lại là một điều xa xỉ vô cùng.
Nhưng Chu Tấn Dư thì khác. Anh thuộc về thế giới rộng lớn ngoài kia. Anh sẽ đạt được thành công theo chuẩn mực của xã hội, sẽ bước lên đỉnh cao mà anh hằng mơ ước.
Kiếp này và kiếp trước, quả thực có vài điều đã thay đổi. Tôi không biết vì sao Chu Tấn Dư lại tỏ tình với tôi, cũng chẳng rõ từ khi nào anh bắt đầu thích tôi. Nhưng tôi không dám nghĩ nhiều nữa. Dù sao, kết cục vẫn sẽ là một. Thế thì, tôi chẳng còn can đảm để mơ tưởng thêm điều gì…
18
Tôi mơ một giấc mơ xa xăm.
Trong mơ, Chu Tấn Dư ba mươi ba tuổi đang quỳ bên giường bệnh của tôi. Đầu anh kề sát đầu tôi, thì thầm thân mật bên tai:
“Xin em… Diệp Loan Loan, xin em, đừng bỏ lại anh…”
Linh hồn tôi đứng ngay cạnh anh, nhưng tiếc là anh không nhìn thấy. Anh chỉ có thể thấy thân xác đã sớm lạnh lẽo trên giường bệnh kia. Tôi thắc mắc, vì sao Chu Tấn Dư lại cầu xin tôi như thế? Anh thật sự yêu tôi nhiều đến vậy sao? Còn tôi… tại sao tôi lại chết? Rõ ràng tôi vẫn đang sống khỏe cơ mà? Sao trong phòng bệnh chỉ có mình anh, còn mẹ tôi đâu? Mẹ đã đi đâu rồi?
Chỉ trong chớp mắt, khung cảnh trước mắt tan biến.
Khi những mảnh vụn ghép lại, Chu Tấn Dư không còn quỳ gối bên giường tôi nữa. Anh mặc một bộ vest đen, nét mặt vô cảm, nâng trong tay hũ tro cốt của tôi, bước về phía nghĩa trang công viên ở ngoại ô. Người đưa tiễn rất ít, phần lớn là đồng nghiệp, bạn học, và vài người bạn thân hiếm hoi.
Khi hạ táng, Chu Tấn Dư không đứng lại trông coi, mà rẽ sang nơi khác. Đến lúc quay về, trước mắt anh chỉ còn lại một tấm bia đá khắc tên tôi, in ảnh tôi.
Kim Phán cũng có mặt ở đó. Đôi mắt cô đỏ hoe, tiến lại gần Chu Tấn Dư, trao cho anh một phong thư giấy da màu vàng. Cô nghẹn ngào nói:
“Hãy sống thật tốt nhé. Đây có lẽ là điều cuối cùng tôi có thể làm vì cô ấy.”
Anh quay lưng về phía tôi, nên tôi không thể thấy rõ nét mặt. Tôi chỉ biết, anh im lặng nhận lấy bức thư. Tôi nghĩ, hẳn anh đã rất đau buồn. Mỗi lần Chu Tấn Dư thật sự đau lòng, dáng lưng anh đều co rúm lại, khom xuống đến mức không thể thẳng nổi…
Những người đưa tiễn lần lượt rời đi, chỉ còn anh vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Dưới gốc một cây cách mộ tôi không xa, cũng chẳng gần. Quên chưa kể, hôm đó trời đẹp lắm — bầu trời xanh trong mà không một gợn mây, gió thu thổi nhè nhẹ, dễ chịu vô cùng. Lúc mặt trời dần lặn, trong cả nghĩa trang chỉ còn lại mỗi mình anh.
Anh đứng dưới gốc cây ấy rất lâu, không biết có mỏi hay không. Cuối cùng, anh bước trở lại trước mộ tôi, ban đầu ngồi xổm, sau đó quỳ hẳn xuống trước bia đá. Anh không khóc, không tỏ ra đau buồn, cũng chẳng để lộ bất kỳ biểu cảm nào. Nhìn cảnh ấy, lòng tôi thắt lại. Tôi nghĩ chắc mình đã thành một hồn ma rồi. Sách viết rằng ma quỷ vốn không có cảm xúc như con người, thế nhưng khoảnh khắc này, tôi lại thấy đau lòng đến mức khó thở.
Tôi không rõ vì sao mình chết. Không đúng, tôi thậm chí còn chưa ý thức rõ mình đã chết. Trong đám người đến tiễn, chẳng thấy bóng dáng mẹ tôi đâu. Mẹ đã đi đâu rồi? Nếu tôi chết, mẹ hẳn sẽ buồn đến gục ngã mất… Nhưng tôi không muốn mẹ đau buồn như thế.
Tôi nhớ hồi vừa cưới Chu Tấn Dư, tôi từng dẫn anh đi chùa khấn thần. Dù là thanh niên thế kỷ 21, tôi vẫn tin vào chuyện quỷ thần. Khi ấy, tôi cầu bình an, còn bị anh chọc cười. Anh nói: “Diệp Loan Loan tin quỷ thần chi bằng tin rằng số mệnh nằm trong tay mình.” Anh chưa từng tin vào thần phật, đúng như lời anh nói, anh chỉ tin số phận là do con người tự nắm giữ.
Thế nhưng sau khi tôi chết, Chu Tấn Dư lại tìm đến một ngôi chùa nổi tiếng, gặp cao tăng. Anh bỗng tin vào chuyện luân hồi chuyển kiếp. Anh thậm chí bằng lòng bỏ cả gia sản, chỉ để “cứu sống” tôi. Anh muốn một người chết sống lại… Khi đó, tôi biết Chu Tấn Dư đã thật sự điên rồi.
Anh không còn đi làm, không còn làm việc, ngày đêm vùi mình trong nhà, lật tìm đủ loại kinh sách cổ, mong tìm ra phương pháp để người chết sống lại. Anh sống trong cảnh khốn cùng, còn tôi thì đau đớn đến mức chỉ muốn tát cho anh một cái để tỉnh lại: Tỉnh đi, đồ ngốc! Người từng cười tôi tin quỷ thần, sao bây giờ còn tin mù quáng hơn tôi?
Tôi chẳng thể làm gì khác, chỉ có thể bất lực nhìn anh ngày một suy sụp.
Chu Tấn Dư, xin anh đừng như vậy nữa… Em cầu xin anh, nhất định phải sống thật tốt…
Bởi vì, em rất yêu anh.
19
Làm sao để kết thúc câu chuyện của tôi đây?
Tôi chết vào ngày thứ mười một sau khi mẹ gặp tai nạn giao thông. Nguyên nhân là dùng thuốc ngủ quá liều. Nhưng tôi thật sự không cố ý đâu… Tôi chỉ vì nhiều đêm liền không thể chợp mắt, đau đớn đến mức không chịu nổi. Đôi mắt tôi, thân thể tôi, cả tất cả của tôi… dường như chẳng còn là của tôi nữa.
Cái cảm giác thân xác và linh hồn tách rời thật sự, khiến tôi đau đớn đến mức không thể đứng dậy. Sau khi mất đi đứa con chưa kịp chào đời, chẳng bao lâu tôi lại mất đi mẹ mình. Người phụ nữ yêu thương tôi nhất trên đời — mẹ Ngụy — cũng vì tôi mà chết.
Bà lo lắng cho tôi, thấy tôi mãi chìm đắm trong nỗi đau mất con mà không thoát ra được. Thế là từ Liên Thành, bà vội vàng bắt xe đường dài đến Bình Thành tìm tôi. Trên đường cao tốc, tai nạn xảy ra, bà ra đi ngay tại chỗ.
Khi tôi tới bệnh viện, mẹ toàn thân bê bết máu, đã lạnh ngắt. Tôi quỳ xuống trước bà, khẽ lay bà, chỉ muốn nói một câu: “Mẹ, con xin lỗi… xin lỗi thật nhiều…” Tôi muốn mẹ sống lại, muốn mẹ mở mắt nhìn tôi thêm một lần nữa. Nhưng bà vẫn nằm bất động. Từ nay sẽ không còn ai lo lắng mỗi khi tôi về muộn có cơm ăn hay không, trời lạnh có mặc thêm áo không, ra ngoài có bị bắt nạt không… Nghĩ đến đó, cả người tôi run rẩy. Giữa mùa hè tháng Bảy, tôi lại lạnh đến phát run.
Từ ngày mẹ mất cho đến ngày tôi chết, tôi không rơi nổi một giọt nước mắt. Chu Tấn Dư lay tôi, cầu xin tôi khóc ra: “Đừng nén lại nữa, Loan Loan, khóc đi.” Nhưng tôi chỉ có thể trơ mắt nhìn anh, không khóc nổi, không gọi nổi, cũng chẳng muốn nói một lời. Trái tim tôi bị một hòn đá nặng nề đè ép, mỗi ngày từ khi mở mắt cho đến lúc trời sáng, tôi sống sót qua hết đêm này đến đêm khác. Cảm giác như hòn đá ấy nghiền nát tim phổi, khiến tôi không thể thở được.
Đến đêm thứ mười một không ngủ nổi, tôi thật sự không chịu đựng thêm nữa. Tôi uống một viên thuốc ngủ, rồi hai viên. Vậy mà chẳng có tác dụng gì, đầu óc tôi vẫn tỉnh táo. Tôi vật lộn trong đau khổ triền miên, cuối cùng nuốt cả chai.
Dần dần, cơn buồn ngủ mới kéo đến. Lúc đó, tôi còn có chút vui mừng. Tôi nghĩ…
Tôi nghĩ… cuối cùng, mình cũng có thể ngủ một giấc thật ngon rồi…
Tôi chết rồi. Chết thật sự. Không có trọng sinh, cũng chẳng có hồi sinh.
Chồng tôi, sau khi tôi ra đi, rơi vào một trạng thái cực đoan chưa từng có. Tôi vô cùng chắc chắn rằng anh yêu tôi, nhưng tiếc thay, tôi lại chỉ có thể biết điều đó theo cách tàn nhẫn này. Có lẽ anh tìm được phương pháp trong những cuốn cổ thư, cũng có thể là nhờ sự trợ giúp của một vị cao tăng. Dù tôi không thật sự sống lại, nhưng trong giấc mơ, tôi lại được gặp Chu Tấn Dư của mười bảy tuổi một lần nữa.
Trong mơ, anh vẫn xa vời đến mức không thể chạm tới. Nhưng quỹ đạo giữa chúng tôi đã đổi khác — xuất hiện những cuộc gặp gỡ chưa từng có trong kiếp trước.
Đây vốn chỉ là một giấc mộng ban ngày do con người ép buộc mà thành, một giấc mộng không có hồi kết. Vì vậy, tôi phải tiễn anh trở về. Anh không thể mãi mãi ở đây. Đây không phải nơi dành cho người sống.
Anh từng nhiều lần thì thầm bên tai tôi, cầu xin tôi đừng bỏ anh lại. Thế thì, lần này, hãy để tôi là người nói với anh: “Thật ra, em rất yêu anh. Yêu anh đến khắc cốt ghi tâm. Cho nên, xin anh, nhất định phải sống thật tốt, sống thật khỏe mạnh!”
Hãy sống tiếp đi, Chu Tấn Dư. Hãy thật sự sống thay cả phần của em.
Bởi vì, em thật sự, thật sự rất yêu anh…